Giới thiệu về loài Gà_lôi_lam_mào_trắng

Gà lôi lam mào trắng là một loài chim Trĩ bị đe dọa ở mức Rất nguy cấp, được phát hiện từ năm 1896, và là loài đặc hữu của khu vực miền Trung Việt Nam. Ghi nhận cuối cùng về sự xuất hiện của loài này trong tự nhiên là từ năm 2000; và có thể đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên. Tuy nhiên, thông tin về loài này rất hạn chế như: đai cao phân bố, yêu cầu về sinh cảnh sống, và các đặc điểm sinh thái cơ bản. Người ta cho rằng, Gà lôi lam mào trắng ưa sinh sống trong “các khu rừng cực kỳ ẩm ướt ở khu vực núi thấp và trung bình”, và đặc biệt cẩn trọng, hiếm khi rời khỏi “những sườn đồi phủ cây bụi và dây leo dày đặc” (Delacour 1977). Tuy nhiên, tất cả các địa điểm thu mẫu loài này từ trước đến nay đều trong những vùng rừng đất thấp tương đối bằng phẳng, và không có bằng chứng nào cho thấy chúng có thể sống ở độ cao trên 300m[2].

May thay, hiện tồn tại một quần thể nuôi nhốt của Gà lôi lam mào trắng gồm khoảng 1.000 cá thể ở các vườn thú và trang trại tư nhân tại châu Âu, Nhật Bản và châu Mỹ. Tuy nhiên, quần thể nuôi nhốt này phát triển từ một quần thể gốc ban đầu rất nhỏ (28 cá thể, trong đó 6-8 con mái, được thu thập từ năm 1924 đến năm 1930; và không hề được bổ sung thêm cá thể hoang dã nào) và do đó bị đồng huyết một cách nghiêm trọng.[2]

Từ năm 2010, báo động bởi sự biến mất rất lâu của Gà lôi lam mào trắng trong tự nhiên, cộng đồng bảo tồn đã có nỗ lực tái thẩm định tình trạng bảo tồn của loài này. Kết quả là, năm 2012, Gà lôi lam mào trắng đã được nâng cấp lên mức Rất nguy cấp trong Sách đỏ của IUCN. Nhiều đợt khảo sát chuyên sâu bằng bẫy ảnh đã được thực hiện nhằm tìm kiếm loài này trong những sinh cảnh phù hợp nhất còn lại tại các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, nhưng không đem lại kết quả khả quan.

Năm 2018, loài này chính thức được quốc tế đổi Tiếng Anh từ Edwards's pheasant thành Vietnam Pheasant (Gà lôi việt nam)[3]